Chào mừng các bạn quay trở lại Podcast Ba Chấm!
Sau Episode thấm đẫm cảm xúc vừa rồi, Ba Chấm đã quay trở lại với vibe cũ rồi đây. Và trong chủ đề tập 5 này, Ba Chấm sẽ lại tiếp tục đem đến cho các bạn những nội dung thú vị.
Đoán xem, đó là gì nào?
“Tư duy phản biện, tư duy phê phán”, hẳn đây là hai cụm từ không còn xa lạ với nhiều người. Vậy, đã biết rõ về chúng như thế, nhưng liệu bạn đã thực sự hiểu đúng về hai khái niệm này?
Mình tin, không phải ai trong số chúng ta cũng có góc nhìn chuẩn xác về hai kiểu tư duy này. Chính vì thế, mình quyết định thực hiện nội dung với mục đích giúp mỗi người có thể hiểu đúng, hiểu sâu về hai kiểu tư duy đó.
À, nếu bạn đang thắc mắc vậy nội dung này có liên quan gì đến chủ đề của kênh thì
hãy nhanh chóng thưởng thức Podcast ngay thôi!
Ok! Ba Chấm on!!!
——————————————–
Kể từ khi dấn thân vào Marketing, một trong những kỹ năng mình học được giúp bản thân phát triển tốt hơn, đó chính là: Tư duy phản biện.
Mình bớt nhìn đời màu hồng, mở rộng tầm mắt để thấy thêm những dải màu sắc của cuộc sống, học cách đặt câu hỏi cho mọi sự việc xảy ra. Cũng chính vì thế, mình bắt đầu hình thành lối tư duy phản biện.
Từ đây, thế giới quan của mình thay đổi rất nhiều.
——————————————–
Cách đây vài năm (giai đoạn 2015, đầu 2016), mình bắt đầu hoạt động mạnh trong lĩnh vực xuất bản sách. Thời điểm đó, mình “khởi nghiệp” từ việc viết review dạo, tham gia chạy sự kiện tọa đàm ra mắt sách, các ấn phẩm manga,… Những công việc tưởng chừng như rất bình thường với nhiều người, nhưng với riêng mình, chúng vô cùng ý nghĩa. Thứ ý nghĩa được tạo ra từ chính một cộng đồng tri thức, chung niềm đam mê.
Giai đoạn này cũng đánh dấu cho sự phát triển mạnh mẽ của một số hội nhóm về sách như: Nhã Nam Reading, Hội thích truyện trinh thám, Hội Yêu Sách,… Tần suất bài viết trong các nhóm này nhiều như nấm mọc sau mưa, mỗi ngày trên dưới 10 bài viết là chuyện bình thường. Trong khoảng thời gian đó, cá nhân mình cảm thấy mọi thứ rất tuyệt vời, bởi mọi người trong cộng đồng sách đều nhất mực tôn trọng ý kiến/quan điểm của nhau.
Cho đến gần đây, sau khoảng thời gian dài mình tập trung cho sự nghiệp chính. Quay trở lại niềm đam mê lúc trước, lân la trong các nhóm về sách. Mình nhận ra sự khác biệt to lớn: Thứ giá trị bản thân từng trân quý, những cá nhân trong cộng đồng chung một niềm đam mê ngày nào giờ đã thay đổi, một cách phũ phàng.
Nếu ngày trước, khi một cá nhân đăng tải bài viết chia sẻ kiến thức hay đưa ra tranh luận cho một chủ đề nào đó, mọi người trong nhóm sẽ cùng đưa ra ý kiến thảo luận, góp ý để giúp post đó được hoàn thiện “tích cực” hơn. Thì hiện tại, họ có xu hướng làm ngược lại, nghĩa là: Công kích và chỉ trích quan điểm cá nhân. Sẵn sàng phản bác và nhạy cảm “thái quá” với những thông tin không giống với suy nghĩ của mình. Không quan tâm đến thông điệp tổng thể, họ phó mặc, thả trôi ngôn từ cho cảm xúc nhất thời, buông những lời nhận xét mang tính chỉ trích.
Và họ gọi đó là: Phản biện.
Còn mình thì cho rằng, đó là: Phê phán.
——————————————–
Ban đầu, mình chỉ nghĩ nhiều người nhầm lẫn “phản biện” vs “tranh cãi”. Thế nhưng, sau đó mình nhận ra đây là suy nghĩ quá chủ quan. Bởi “tranh cãi” vốn là khái niệm cực kỳ khác biệt so với “phản biện”.
Chính vì suy nghĩ có phần chủ quan ấy mà mình đã “rất sốc” khi nhận ra số đông trong chúng ta đang hiểu sai lệch hoàn toàn về khái niệm “tư duy phản biện”. Nói chính xác hơn, là họ thản nhiên sử dụng “tư duy phê phán” bằng việc “công kích cá nhân” và tự huyễn rằng đó là “sự phản biện”.
Trong số Podcast này, mình sẽ giúp các bạn hiểu chính xác hơn về: Tư duy phản biện và tư duy phê phán. Hy vọng sau khi nghe Podcast, các bạn sẽ không còn nhầm lẫn 3 khái niệm và vận dụng chúng chính xác hơn trong cuộc sống.
Ok, sẵn sàng chưa? Let’s play!!!
——————————————–
I. Tư duy phản biện và tư duy phê phán
Trên thế giới, tư duy phản biện (Critical Thinking) vs tư duy phê phán (Criticism Thinking) được định nghĩa GIỐNG NHAU. Tại Mỹ và các nước châu Âu, châu Á, kiểu tư duy này đã được các nhà giáo dục kêu gọi đưa vào trong phương pháp giảng dạy trong học đường.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, chúng mang hai hàm ý khác biệt.
Theo tự điển Hán Việt của cố giáo sư Đào Duy Anh, “phê phán” mang ý nghĩa phân định, bình phẩm, xét đoán. Còn trong cuốn Việt Nam Tân Tự điển của cố Tự điển gia Thanh Nghị (1967), “phê phán” mang hàm nghĩa đơn thuần là xét đoán.
1. Tư duy phản biện (Critical Thinking) là gì?
* Khái niệm
Tư duy phản biện là quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin chứa nội dung có sẵn dưới góc nhìn đa chiều. Sự đánh giá dựa trên 5 yếu tố CẦN:
- Logic (liên kết hợp lý)
- Toàn diện (đa chiều)
- Công tâm (khách quan)
- Đặt câu hỏi (tạo mối nghi ngờ)
- Quyết đoán
Khi sử dụng tư duy phản biện, mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ, khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Muốn làm được điều đó, tư duy phản biện cần hội tụ 3 yếu tố ĐỦ:
- Lập luận rõ ràng, chắc chắn
- Dẫn chứng minh bạch
- Lập luận và dẫn chứng phải bổ trợ lẫn nhau
* Mục đích
- Tư duy phản biện giúp người tư duy đưa ra quyết định về vấn đề nên làm và không nên làm/nên tin và không nên tin.
- Tư duy phản biện giúp người sử dụng cân bằng lượng lớn thông tin thu thập, giữa suy nghĩ cá nhân và suy nghĩ chung của tập thể (số đông).
* Ý nghĩa
Tư duy phản biện không được vận dụng nhằm đạt đích đến cuối cùng (ví dụ như thắng/thua, được/mất,…). Chúng là quá trình tiếp diễn liên tục, tự cải tiến để nâng cấp trình độ tư duy, hiểu biết, lập luận. Nói đơn giản: Tư duy phản biện là loại kỹ năng cần được học và vận dụng thường xuyên. Cái hay của nó là người sử dụng có thể áp dụng lối tư duy này ở bất kỳ trường hợp nào trong cuộc sống mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện gì.
2. Tư duy phê phán (Criticism Thinking) là gì?
* Cái chết của Socrates
Khi nói đến “tư duy phê phán” (phản biện), chúng ta không thể không nhắc đến Socrates – một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Athens). Socrates được cho là nhân vật khởi nguồn, khai sinh ra “tư duy phê phán” mà cho đến tận ngày nay, người đời chúng ta vẫn luôn không ngừng học hỏi kỹ năng này.
Câu chuyện xoay quanh vị triết gia vĩ đại này tồn tại rất nhiều trong các văn bản văn học, hay Internet. Nhưng có lẽ, trong tất cả số đó, câu chuyện về “cái chết của Socrates” nổi tiếng hơn cả. Bởi nó là kết tinh của tri thức và những bài học mà đến tận ngày nay, chúng vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Trong khuôn khổ Podcast, mình xin được tóm lược nội dung câu chuyện về “cái chết của Socrates” nhằm giúp các bạn thấu hiểu tường tận về bản chất của “tư duy phê phán”.
——————————————
Câu chuyện: “Cái chết của Socrates”
Socrates được coi là một trong những người đã sáng tạo ra nền triết học phương Tây. Ông sinh vào khoảng năm 470 và mất vào khoảng năm 399 Tr.CN, thời điểm được coi là giai đoạn hưng thịnh của thành phố Athens. Chính vì thế, Socrates đã có cơ hội tốt để tiếp thu nền học vấn Hy Lạp cổ đại và sống trong bầu không khí tranh luận học thuật sôi nổi.
Sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có thân phụ (cha) tên Sophroniscus làm nghề đẽo đá, khắc tượng – một công việc giáp ranh giữa lao động chân tay và lao động nghệ thuật. Tương truyền, ông chính là nghệ nhân đã làm ra tượng Graces (tên gọi chung) – ba nữ thần đại diện cho sự duyên dáng, vẻ đẹp, sự sáng tạo của loài người và sung túc.
Thân mẫu (mẹ) ông tên Phaenarete làm công việc đỡ đẻ. Dành cho bạn nào chưa biết, nghề này có tên tiếng Pháp là Maïeutique (nguyên văn: Majeutique), ám chỉ hành động giúp người phụ nữ thai nghén sinh nở dễ dàng, vượt cạn thành công trong giây phút gian nan.
Người ta nói, nếu nghề của cha giúp Socrates rèn luyện sức khỏe dẻo dai, đôi bàn tay khéo léo, thì nghề đỡ đẻ của mẹ đã truyền cảm hứng cho ông tạo nên phương pháp tranh luận triết học. Vậy, tại sao đỡ đẻ – một nghề vốn rất bình thường lại có thể truyền cảm hứng cho 1 triết gia tạo nên phương pháp vĩ đại mà sau này, người đời gọi nó là: Biện chứng Socrates.
Biện chứng Socrates là phương pháp sử dụng loạt câu hỏi đặc trưng, có nguyên tắc để bóc tách, truy tìm bản chất các tư tưởng ẩn chứa trong câu trả lời. Thông qua việc hỏi đáp liên hoàn, người được hỏi sẽ dần nhận ra các lỗ hổng trong lập luận của mình, từ đó hiểu sâu sắc hơn về bản chất vấn đề và tự rút ra bài học cho bản thân. Một trong các bước của phương pháp này yêu cầu chủ thể đối thoại phải giúp đối phương tự ngộ ra chân lý. Hay nói theo nghĩa thô: Chủ thể đối thoại phải biết “đỡ đẻ” cho đối phương, giúp họ “tự đẻ” ra chân lý. Liên kết với thuật ngữ Majeutique (nguyên nghĩa đen ngành Y) ám chỉ hành động giúp người phụ nữ thai nghén sinh nở dễ dàng, Socrates đã sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa bóng. Nghĩa là: Trách nhiệm của chủ thể đối thoại (người chất vấn) là giúp người bị chất vấn tự tìm ra lối thoát (đẻ) để đưa họ đến “chân lý”. Giúp họ giải tỏa những suy tư mà bản thân đã thai nghén trong lòng nhằm tạo lập tri thức mới. Qua đó giúp tri thức không còn tiềm ẩn mà có thể thoát ra bên ngoài, để trở thành chân lý/tri thức phổ quát.
Đó là lý do vì sao người ta nói, nghề đỡ đẻ của mẹ Socrates đóng vai trò là một nguyên nhân khởi phát cho sự nghiệp triết học, các quan niệm cũng như kích thích quan điểm giáo dục mới của Socrate. Bổ sung cho luận điểm này, mình xin được trích dẫn câu nói của Nhà triết học người Pháp – Andre Cresson:
A. Cresson viết: “Rất có thể sự kiện này đã ảnh hưởng quan trọng đến sự tiến triển trong các quan niệm của Socrates. Bà Phenarete đã kích thích Socrates phụng sự không phải như một thầy giáo dạy học, mà như một người đỡ đẻ, giúp cho các tinh thần khám phá ra những gì mà nó vẫn mang nặng.”
——————————————
Theo tài liệu được ghi chép của Nhà triết học Plato (một trong ba học trò của Socrates) ghi lại: Khi Socrates trạc tuổi trung niên, ông cùng người bạn của mình là Chaerephon tới gặp bà đồng Phithia tại Delphi để xin lời sấm, với mong muốn biết trong thiên hạ có ai thông tuệ hơn Socrates (như lời đồn).
Kết quả: Bà đồng phán không có ai thông tuệ hơn Socrates.
Biết câu trả lời, Socrates rất ngạc nhiên bởi ông cho rằng bản thân chẳng có chút thông tuệ nào. Bởi bà đồng được coi là trung gian giữa con người và thánh thần, vậy nên lời của bà là ý của Thượng đế. Lúc này, ông vô cùng bối rối và tự nhủ: “Ý của thần linh là gì đây? Tại sao Thần lại nói thế? Phải giải mã câu nói này của Thần như thế nào? Thần ám chỉ điều gì khi nói tôi là người thông tuệ nhất? Thần cũng không thể nói dối, bởi nói dối sẽ mâu thuẫn với bản chất của Thần.”
Sau một hồi trăn trở mà không tìm ra đáp án. Cuối cùng Socrates nghĩ ra một phương pháp để kiểm chứng cho những thắc mắc. Ông tư duy rằng chỉ cần tìm được người thông tuệ hơn mình, sau đó tới gặp Thần để nói về người đó sẽ có thể phản bác lời phán của Ngài.
Dù biết rằng việc làm sắp tới đây của mình sẽ gây thù chuốc oán với nhiều người. Thế nhưng, Socrates nghĩ mình cần làm điều gì đó vì lời phán của Thượng Đế phải là ưu tiên số một. Ông đã thề với dân Athens, có Cẩu thần Ai Cập chứng giám rằng kết quả tìm kiếm của mình sẽ chứng minh những người tăm tiếng nhất là những kẻ ngu độn nhất. Ngược lại, những người được kính trọng ít hơn hóa ra lại thông tuệ và lương thiện hơn nhiều. Và để minh chứng chân lý cuối cùng: Lời bà đồng phán là không thể phản bác!
Nghĩ là làm, đối tượng đầu tiên được Socrates chọn là một chính trị gia, nhân vật có tiếng thông tuệ. Sau 1 hồi trò chuyện, kết quả Socrates nhận được thật sự bất ngờ. Thì ra, vị chính trị gia này chẳng hề thông tuệ như bản thân người đó và nhiều người dân lầm tưởng. Khi cố gắng giải thích cho vị chính trị gia kia sự thật ông ấy không hề thông tuệ, Socrates liền bị vị đó thù hằn. Không chỉ có thế, đến ngay cả những người có mặt tại buổi nói chuyện đó cũng không ưa Socrates.
Tiếp theo, Socrates đến gặp các thi sĩ thơ ca. Lúc này, Socrates đã kỳ vọng họ sẽ dạy cho mình một bài học, rằng ông chẳng phải kẻ thông tuệ nhất như lời sấm. Tự tin với suy nghĩ ấy, Socrates bèn lôi vài đoạn sáng tác đỉnh cao trong chính các tác phẩm của họ và hỏi về ý nghĩa của chúng.
Một lần nữa, kết quả lại đem đến cho Socrates sự ngạc nhiên, bởi bên cạnh các thi sĩ kia, thì đa số mọi người có mặt tại khán phòng đó đều có thể đưa ra lời bình cho tác phẩm, thậm chí còn hay hơn cả chính tác giả của chúng.
Vậy là, Socrates hiểu rằng: Trong các thi sĩ kia chẳng có sự thông tuệ nào cả, tất cả dựa trên hai thứ gọi là thiên tài và cảm hứng. Họ giống những gã thầy bói chỉ nói những lời hay ho, nhưng lại chẳng thể hiểu rõ bản chất của chúng. Sau cùng, ông bỏ đi trong tâm trạng thất vọng, suy nghĩ bản thân hơn họ. Bởi, họ chẳng biết gì mà lại cứ cho rằng mình biết, giống như các vị chính trị gia. Còn mình, thì vừa không biết lại vừa không cho là mình biết.
Cuối cùng, Socrates tới gặp các nghệ nhân. Vẫn giữ nguyên tâm thế cũ, cho rằng mình vốn chẳng thông tuệ và hy vọng các nghệ nhân sẽ giúp bản thân nhận ra điều đó. Bởi một lý lẽ ông rất chắc chắn: Đó là họ biết những thứ mà mình mù tịt, đó là kỹ năng nghề nghiệp. Nhưng, trớ trêu thay, Socrates chẳng ngờ lần cuối cùng thử nghiệm cũng là lần cho ông kết quả thất vọng nhất.
Đúng là các nghệ nhân rất giỏi, họ thông tuệ trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Nhưng cũng giống thi sĩ, họ tự cao cho rằng bản thân biết hết tất tần tật vấn đề cao siêu. Chính điều này đã che lấp đi sự thông tuệ, biến họ trở nên ngu tối. Lúc này, Socrates lại nảy sinh suy nghĩ: Liệu mình có muốn là mình, hay là người không có cả kiến thức và sự ngu tối, hay có cả hai? Sau cùng, ông tự trả lời mình: “Tôi thà cứ như tôi thế này còn hơn.”
Lúc này, Socrates hiểu ra, tất cả cuộc tra vấn này là ý của Thượng Đế, nhằm hướng ông đến dụng ý: “Ngài chỉ mượn tên ông để làm ví dụ minh họa mà thôi, như để nói rằng, hỡi những con người, kẻ thông tuệ nhất là kẻ, cũng giống như Socrates, hiểu được rằng sự thông tuệ của mình thực ra không có giá trị gì hết”.
Socrates cho rằng, ông được coi là thông tuệ bởi những thính giả của ông luôn tưởng tượng rằng ông có một sự thông tuệ mà những người khác không có. Nhưng, hỡi những người Athens, sự thực chỉ có Thượng Đế là thông tuệ mà thôi, và bằng câu phán của mình, Ngài đã muốn cho ta thấy rằng sự thông tuệ của con người có rất ít giá trị, thậm chí hoàn toàn vô giá trị.
——————————————
Mặc dù về tổng thể, sự tra vấn của Socrates nhằm tìm ra đáp án cho câu trả lời: “Ai là người thông tuệ nhất?” Hay xa hơn, là khỏa lấp khoảng trống trong các câu trả lời của những người được cho là thông tuệ, vạch trần bản chất thật sự của thông tuệ là tốt. Thế nhưng, không thể phủ nhận kết quả việc Socrates làm đã đem đến cho ông sự ghét bỏ, thù hằn của nhiều người. Bởi, nó động chạm đến lòng tự trọng của họ.
Cứ như vậy, trong suốt mấy chục năm, số lượng người ghét Socrates ngày càng tăng cao. Cho đến khi Socrates gần 70 tuổi, giới hạn chịu đựng của người dân thành Athens đã lên đến đỉnh điểm. Lúc này, một công dân tên Meletus đã đệ đơn tố cáo Socrates lên tòa án, cáo buộc ông với tội danh gieo rắc tư tưởng vô thần (bài xích thần linh, thay Thượng Đế của thành phố bằng Thượng Đế của mình), truyền bá tư tưởng tự do, lối sống phóng túng làm băng hoại và suy đồi đạo đức thanh niên.
Kết quả, sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực đi tìm người thông tuệ hơn mình, Socrates đã bị kết án tử hình bằng độc dược. Ông bị đưa ra trước tòa án với đoàn bồi thẩm gồm 501 công dân thành Athens. Về sau, lời tố cáo mang tính vu oan Socrates được học trò của ông – Nhà triết học Plato mô tả lại qua đối thoại giữa Socrates và Euthyphro ở tiền sảnh công đường trước khi khai mạc phiên tòa như sau:
Socrates nói: “Hắn (Meletus) bảo là hắn biết được lý do tại sao thế hệ trẻ ngày nay đang bị hư hỏng, và ai đã gây ra cho tuổi trẻ hư hỏng như thế… Lời tố cáo của hắn rất lạ, mới nghe đã làm tôi phải ngạc nhiên. Hắn bảo rằng tôi là một nhà thơ, hay là kẻ tạo ra các thần thánh, thế mà tôi lại phát minh ra thần thánh mới, và từ chối sự hiện hữu của các thần thánh cũ, đây là cơ sở nền tảng của cáo trạng mà hắn đã đưa ra.”
Bằng những lời lẽ đanh thép, logic chặt chẽ, lý lẽ sắc sảo của một nhà ngụy biện, Socrates đã tranh luận tay đôi với đoàn bồi thẩm. Tuy nhiên, một mình ông không thể thắng họ, bởi theo lẽ đời, xưa nay chân lý luôn thuộc về số đông và kẻ mạnh. Ông bị tòa án kết tội chết bằng hình thức bức tử, một cách chết nhẹ nhàng và cao thượng dành cho những người quý phái lúc bấy giờ: Dâng chén rượu trong đó có pha độc dược.
——————————————
Bài học rút ra từ câu chuyện
Mình tin rằng, với những ai đã tìm hiểu về Socrates và các câu chuyện xoay quanh vị triết gia nổi tiếng này, hẳn các bạn sẽ thấm nhuần được tư tưởng sâu sắc của ông. Trong giới hạn Podcast, mình sẽ giúp các bạn đúc kết ra hai bài học mà theo mình, là phù hợp nhất với chủ đề “tư duy phản biện”.
Bài học đầu tiên: “Sự thật mất lòng”
Đúng, Socrates đã chết vì nói ra sự thật làm mất lòng nhiều người. Hay nói cách khác, ông chết vì dám vạch trần lý lẽ. Điều này, tương quan với việc chúng ta chỉ ra sự thật/lỗ hổng trong một vấn đề nào đó và tra vấn chúng đến tận cùng.
Việc vạch trần lý lẽ, tra vấn hay đối chất của ông không nhằm mục đích hạ nhục, giáo huấn, khoe khoang tri thức. Đơn thuần, Socrates chỉ muốn người đối phương hiểu ra bản chất vấn đề. Nhưnggggg, có 1 chi tiết đáng bàn trong “biện chứng Socrates”, đó là những câu hỏi.
Bài học thứ 2: Phản biện cũng cần khéo léo
Những câu hỏi của Socrates liên tục xoáy sâu sau mỗi câu trả lời của đối phương. Người chất vấn có thể hỏi liên tục cho đến khi người bị chất vấn phải THỪA NHẬN vấn đề đó thực sự có lỗ hổng và chưa thỏa đáng. Và chính điều đó đã khiến Socrates bị nhiều người ghét. Bởi để làm một người dám thừa nhận là điều không dễ, nó liên quan đến lòng tự trọng. Hơn nữa, nếu để ý, theo ghi chép thì tất cả các lần Socrates tra vấn, hỏi han đều diễn ra ở nơi đông người. Là bạn, liệu bạn có đủ dũng khí thừa nhận tất cả lỗ hổng trong vấn đề, trước rất nhiều người không? Khi trước đó bạn luôn nghĩ rằng nó đúng, được cộng đồng ủng hộ. Và quan trọng, tâm lý bạn có đủ bình tĩnh để suy xét, nhìn nhận lại vấn đề với thái độ tích cực trước loạt câu hỏi mang tính truy xét dồn dập?
Bản chất, mục đích việc làm của Socrates không sai, nhưng chính cách làm của ông khiến kết quả cho tất cả thành ý đó “đổ sông đổ bể”. Đó là sự thiếu khéo léo trong giao tiếp, cái thô quá đáng trong việc bày tỏ thái độ,… Nói tóm lại, ông đã chết vì phản biện chưa khéo.
* Tại sao tư duy phê phán và phản biện được coi là một?
Bắt nguồn từ chính câu chuyện về “cái chết của Socrates”, về lời phê phán của Chúa dành cho thói ảo tưởng, tự cao của con người. Socrates vốn chẳng phải Chúa, cũng không tự nhận mình quyền năng như Ngài. Những gì ông có thể làm đó là tự đặt ra câu hỏi ngược lại (phản biện) cho mọi lý lẽ, quan điểm, vấn đề xảy ra, mà nguyên nhân khởi phát là do bản thân bị người dân gán cho biệt danh “người thông tuệ nhất”. Và đây cũng chính là bản chất của “tư duy phản biện”.
Bản chất sự phê phán không mang ý nghĩa tiêu cực như cách đại đa số người (Việt) đã và đang lầm tưởng. Phê phán đơn giản là cách chúng ta chỉ ra lỗ hổng, điểm bất hợp lý trong mạch logic của một vấn đề, sự việc nào đó, giống như cách Socrates đặt ra hàng loạt nghi vấn về sự thông tuệ của bản thân.
Theo mình, lý do cho việc sự phê phán bị hiểu theo nghĩa tiêu cực nằm ở cách chúng ta sử dụng nó. Đúng vậy, từ trước đến nay, mỗi người luôn nhầm tưởng phê phán là chỉ trích, bắt lỗi và vạch tội. Vô hình trung, chúng ta vô tình khiến ý nghĩa của phê phán thay đổi theo chiều hướng xấu.
Ví dụ như làm từ thiện. Trong quá trình làm công việc này, hẳn bạn sẽ nhận được rất nhiều câu hỏi, thắc mắc, tra vấn của mọi người, các đơn vị báo chí, truyền thông. Vậy, bạn sẽ đối mặt với những điều đó như thế nào? Bạn coi đó là phản biện, phê phán hay chỉ trích?
Nếu bạn giải đáp được tất cả thắc mắc, tra vấn đó từ họ (trong bối cảnh hòa bình, tất cả giữ hòa khí tích cực), đó là điều rất tốt. Coi như đó là kết quả tốt đẹp cho sự phản biện, cú tát vào mặt cho những kẻ thích phê phán.
Nếu bạn không thể giải đáp những thắc mắc, tra vấn đó một cách thỏa đáng, kết quả sẽ ra sao nhỉ? Đơn giản thôi, bạn sẽ lặp lại sai lầm cũ, cho rằng cộng đồng và truyền thông đang phê phán việc làm trượng nghĩa của bạn. Dần dần, việc bạn lún sâu vào suy nghĩ tiêu cực này là điều khó tránh.
Tựu trung, bạn nghĩ phê phán và phản biện giống nhau, hay nghĩ phê phán là tiêu cực, tất cả nằm ở trình độ nhận thức, cách nhìn nhận vấn đề của bạn. Bạn nghĩa điều gì là tích cực, nó sẽ tích cực và ngược lại. Một sự việc, vấn đề luôn có hai mặt. Chọn nhìn vào mặt nào, quyết định nằm ở bạn.
Để có thể phê phán hay phản biện, chính mỗi người cần phải trải nghiệm, dấn thân đi tìm hiểu bản chất sự việc đến tận cùng. Không ngại bất cứ điều gì, kể cả thái độ của mọi người khi họ được nghe câu hỏi chất vấn. Nói đơn giản, chỉ khi nào chúng ta chịu được những thứ cảm giác, dám làm những công việc như Socrates đã từng làm trong quá khứ. Lúc đó, con người mới có thể thực sự đạt đến đẳng cấp trong phản biện và nhanh chóng phát triển thần tốc về tư duy, lý trí.
* Khái niệm tư duy phê phán
Như đã nói, tại Việt Nam, “tư duy phê phán” mang khái niệm khác so với tư duy phản biện. Lý do khá đơn giản: Do bản thân từ “phê phán” mang ý nghĩa không tích cực trong tiếng Việt (phần này tuy chưa có thông tin kiểm chứng chính thống, nhưng với những phân tích cụ thể trên, hẳn các bạn cũng hiểu thêm được phần nào).
Lưu ý:
- Từ phần này, các bạn hãy hiểu tư duy phản biện và tư duy phê phán là GIỐNG NHAU. Mình vẫn sẽ phân tích sâu hơn về “tư duy phê phán” nhằm giúp các bạn có sự đối sánh rõ ràng nhất.
- Từ phần này, mình sẽ dùng Critical Thinking là TỪ CHUNG để tránh nhầm lẫn hai khái niệm.
Trên thế giới, Critical Thinking là một khái niệm phong phú đã được phát triển trong suốt 2.500 năm và có nguồn gốc từ giữa cuối thế kỷ 20. Theo thống kê, Critical Thinking có tới 64 định nghĩa khác nhau. Nhưng, nếu chỉ được lựa chọn 1 định nghĩa thì các tính từ được dùng để miêu tả sẽ lần lượt là: Phân tích, tổng hợp, phán đoán, đánh giá và cả tư duy phản tư.
Bên cạnh đó, mình xin được tổng hợp 1 số trích dẫn các khái niệm về Critical Thinking đã được công nhận trên thế giới:
Định nghĩa 1: Dựa trên tuyên bố của 2 triết gia Michael Scriven & Richard Paul được trình bày tại hội nghị Quốc tế thường niên lần thứ 8 về Cải cách giáo dục và Tư duy phê phán năm 1987:
“Critical Thinking là quá trình mang tính kỷ luật, sự chủ động và khéo léo về mặt trí tuệ để từ đó hình thành khái niệm, phân tích, tổng hợp đánh giá một vấn đề nào đó.
Critical Thinking chuẩn mực dựa trên các giá trị trí tuệ mang tính chính xác, nhất quán với các bằng chứng xác thực, chính đáng nhằm hướng tới hành động mang sự tin tưởng.”
Định nghĩa 2: Từ định nghĩa trên, Richard Paul và Linda Elder (nhà tâm lý học) đã cho ra đời cấu trúc Paul-Elder phục vụ cho việc giảng dạy, đào tạo Critical Thinking gồm 3 phần: Phân tích tư duy/đánh giá tư duy/cải thiện tư duy.
Định nghĩa 3: Theo định nghĩa từ Đại học Quản trị Tham mưu của Lục quân Mỹ (Army Management Staff College) năm 2014:
“Tư duy phê phán là sự tư duy có kỷ luật, tự định hướng, phản ánh trình độ cao về kỹ năng và khả năng tư duy về sự tư duy của chính mình trong lúc suy tư để làm cho sự tư duy của mình trở nên tốt hơn.”
Qua các định nghĩa trên, dưới đây là định nghĩa Critical Think từ mình:
“Critical Thinking là quá trình lật lại vấn đề dưới góc nhìn đa chiều, tổng hợp các dẫn chứng, quan điểm nhằm phản biện lại cho vấn đề được tranh luận.”
* Mục đích và ý nghĩa
Critical Thinking chứa hai thành phần:
- Tập hợp các kỹ năng xử lý thông tin và niềm tin.
- Sử dụng thói quen nhận thức từ những kỹ năng đó để điều khiển hành vi.
Do đó, nó đối lập với:
- Việc thu thập và lưu giữ thông tin đơn thuần (mẫu thuẫn với việc đánh giá và phân tích các thông tin đó).
- Chỉ sở hữu một tập hợp các kỹ năng (bởi cần sử dụng chúng liên tục).
- Chỉ sử dụng các kỹ năng đó mà không chấp nhận kết quả của chúng.
Do vậy, có thể hiểu mục đích và ý nghĩa của Critical Thinking được dựa trên động cơ cá nhân (ích kỷ), nhằm vận dụng khéo léo các ý tưởng phục vụ cho lợi ích của chính mình hoặc một nhóm người. Vì lẽ đó, Critical Thinking có sự thiếu sót về mặt trí tuệ. Nhưng bù lại, Critical Thinking đạt được sự thành công trong thực tế bởi tính khả dụng của nó.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu về Critical Thinking, mình có một phát hiện khá thú vị, đó là:
“Khi đặt Critical Thinking lên trên cán cân của sự công bằng, giữa duy tâm và duy vật, Critical Thinking có xu hướng thuộc về mặt duy vật nhiều hơn. Nhưng đồng thời, cũng bị chịu tác động bởi duy tâm, do thói quen sử dụng Critical Thinking (nhằm đạt lợi ích tối đa cho bản thân).”
3. Tại sao chúng ta cần học kỹ năng Critical Think bằng mọi giá?
Giá trị cốt lõi của Critical Thinking hướng đến là giúp con người thấu hiểu vấn đề đa chiều. Chúng ta thường có xu hướng suy nghĩ đơn giản. Hay nói đúng hơn, mặc định 1 số khái niệm, sự thật là đúng, chỉ vì “số đông cũng như vậy”, hoặc “trước giờ vẫn thế”.
Tuy nhiên, sự thật có thể không như chúng ta tưởng, câu chuyện về “cái chết của Socrates” là minh chứng sắc nét cho điều đó. Khi một người tưởng họ thông tuệ, nhưng thật ra là không. Hay chính Socrates nếu không giữ vững tinh thần và khiêm tốn cũng rất dễ rơi vào “bẫy ảo tưởng” thông tuệ do người đời gán danh.
“Trau dồi Critical Thinking là cách tốt nhất để con người thấu hiểu bản chất sự việc. Hiệu quả của công việc đạt đến mức độ nào phụ thuộc vào lối tư duy phản biện của mỗi người, hay nói theo cách gần gũi hơn, là cách chúng ta suy nghĩ.”
(Trích từ The Miniature Guide to Critical Thinking Concepts and Tools của tác giả Richard Paul và Linda Elder, Foundation for Critical Thinking Press, 2008)
* Bài viết có tham khảo tư liệu từ:
– Wikipedia
– Nguyễn Đình Đằng
– Nông Duy Trường
– The Foundation for Critical Thinking
– Các trang báo mạng trong nước
Donate for Ba Chấm: https://www.buymeacoffee.com/bachamblog
Theo dõi và cập nhật các tập Podcast mới nhất tại:
Anchor: http://bit.ly/anchorrbacham
Google: http://bit.ly/gbacham
Spotify: http://bit.ly/sbacham
Apple: http://bit.ly/abacham
On web: https://bit.ly/lbllpodcast
Enjoy listening! Keep trying!
Tác giả: Nam LB.
Bản quyền nội dung bài viết thuộc về Love Books Love Life. Yêu cầu không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý của tác giả.
Hãy tôn trọng tác giả bằng cách khi Re-post chú thích ghi nguồn đầy đủ!
“Love Books Love Life – Lắng nghe để sẻ chia”
2 Comments